Tha thứ…Chuyện không dễ đâu

8:12 PM |
http://sphotos-a.xx.fbcdn.net/hphotos-prn1/p480x480/68579_567100039988038_1286219234_n.jpg
Đỗ xuân Thảo


Đã là Cơ đốc nhân thì một trong những điều được dạy dỗ đầu tiên là sự tha thứ. Chẳng vậy mà trong Kinh Thánh Tân ước, môn đồ của Chúa luôn thắc mắc về sự tha tội, nói gần hơn là sự tha lỗi một khi mình phạm lỗi hoặc ngược lại khi người khác mắc lỗi với mình.

Ít nhất có lần sứ đồ Phi-e-rơ, người đầu đàn trong nhóm tông đồ tiên khỏi đã thẳng thắn hỏi Chúa Giê-su, ‘Thưa Chúa, nếu anh em tôi phạm tội cùng tôi, thì sẽ tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần chăng? Ngài đáp rằng: ta không nói cùng ngươi rằng đến bảy lần đâu, nhưng đến bảy mươi lần bảy (Ma-thi-ơ 18: 21, 22).

Trong cuộc sống hàng ngày đặc biệt trong quan hệ giữa người với người, việc mắc lỗi lầm là điều không tránh khỏi, có chăng là ở mức độ tính chất vụ việc hoặc lập đi lập lại bao nhiêu lần. Người có lòng độ lượng chẳng ai chấp chi với những lỗi lầm xem ra ai cũng có thể vấp phạm và sự tha  thứ cho nhau đôi ba lần trong tinh thần chin bỏ làm mười, trong tình hàng xóm, trong đạo cha con, trong nghĩa vợ chồng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng bỏ qua cho nhau đến bảy lần khi có ai  ‘phạm tội cùng mình’ thì người ấy chắc phải là tông đồ đạo sĩ, chứ ngay trong hàng tôi tớ Chúa cũng khó kiếm ai, ‘nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn’.

Ấy vậy mà giáo lý của Chúa đã đi xa hơn, xa đến mức mà những kẻ vốn yếu đuối như chúng ta không thể mường tượng nổi khi Chúa phán chẳng phải bảy lần đâu mà phải làm đến bảy mười lần con số Phi-e-rơ gợi ý. Qua con số và đối thọai ngắn này, Chúa đã nhắn gửi cho con cái Chúa một thông điệp sinh động về sự tha thứ mà Chúa biết cội rễ của các điều ác là do con người vốn hay ghen ghét, tị hiềm, sân si hận thù nhau.

Nên chi một khi biết tha thứ cho nhau như lời Chúa dạy, thì hòa khí sẽ phục hồi,  tình người sẽ thắm đậm, tình yêu thương có cơ may nảy nở vì vốn dĩ ‘tình yêu thương hay dung thứ mọi sự’ sẽ làm cho con người gần nhau hơn, hòa thuận với nhau hơn, từ đó cuộc sống sẽ dễ chịu hơn, vui hơn, đẹp hơn.

Cũng bàn về sự tha thứ, từ nhỏ tới lớn, từ trẻ đến già, mấy ai mà chẳng một lần hay nhiều lần, trong một ngày một tuần chứ đừng kể đâu xa, đã có sự tha thứ cho kẻ lân cận mình hoặc nhận được sự thứ tha từ người mình mắc lỗi hoặc phạm tội với cá nhân hay tập thể xa gần. 

Nhìn dưới góc cạnh thuộc linh thì sự tha tội là một tố chất luôn được mọi người cầu tìm, mà cụ thể trong Bài cầu nguyện chung Chúa Giê-su đã dạy cho môn đồ và con cái của Ngài cách cầu nguyên. Ngài không quên nhắc  ba yếu tố thiết yếu cho con người là đồ ăn, sự tha tội và sự cám dỗ. Đặc biệt sự tha tội không phải chỉ xin và được ban cho, mà Chúa có kèm thêm một điều kiện chính người được tha tội cũng phải sẵn lòng tha thứ kẻ phạm tội nghịch cùng mình. Chẳng vậy  mà mỗi tín đồ trên căn bản ít nhất một lần trong ngày đã cầu xin Chúa, “Xin tha tội lỗi cho chúng con,như chúng con cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng con.”

Từ lời cầu xin này, mặc nhiên hai vế của sự tha và được tha như đan cài vào nhau, bổ túc cho nhau, một khi Chúa đã tha và cởi trói cho tội nhân  thì kẻ được tha cũng đừng nên cố chấp buộc tội anh em mình.

Trong một đoạn Kinh thánh khác cũng bàn về sự tha tội, Chúa còn dặn dò kỹ hơn mà người đọc trong tinh thần tự giác có thể hiểu như một lời ‘răn đe’ thích ứng, “Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy.” (Ma-thi-ơ 19: 35).

Nói thật lòng do cứ trăn trở vì câu KT này mà tôi nghĩ nhiều bà con anh em tín hữu mình cũng cùng suy nghĩ như tôi sẽ cảm thấy ‘áy náy’ khi còn phân vân cố chấp không chịu tha lỗi cho ai đó, hoặc có tha nhưng chưa trọn vẹn vì lòng thì muốn tha nhưng trí vấn lấn cấn chưa chịu….quên. Cho nên sự tha tội tha lỗi là một tiến trình nói thì dễ  nhưng làm thì khó, chu kỳ trói buộc cởi tha gần như xảy ra như cơm bữa trong quan hệ cộng đồng, vì vậy mà mỗi người chúng ta cần Ơn Thánh Linh soi dẫn và giúp đỡ điều này.

Tôi nhớ có lần trong dịp đi sinh hoạt Traị hè tại San Jose, tôi ngồi ăn potluck chung với ông bà Mục sư Phạm Minh Hoàng. Ông bà coi tôi như em và cho phép tôi xưng hô Anh Chị.  Do cơ may gần gũi và biết mục sư vốn có thời hoạt động cho phía bên kia, nay ra hải ngoại sau những tháng ngày gian truân ông đã quay về sốt sắng hầu việc Chúa, tôi có nêu một thắc mắc mà chân tình tôi muốn thổ lộ với người mà tôi luôn tin kính. Tôi nói, “Không hiểu sao tụi VC nó nhốt em mười mấy năm mà sao em không thấy thù Cộng sản. Tất nhiên không ưa chế độ thì có nhưng không ‘ghim’ sự hận thù như đa số các bạn bè của em.”  Ông tủm tỉm cười nhưng lại nói nghiêm túc, ‘’Chúa làm điều này cho chú, chứ không chú cứ thù họ thì chú khổ.”  Bà Chị ngồi cạnh mặt đăm chiêu như thương cảm cũng gật đầu ưng ý. Sau nghiệm lại tôi thấy đúng, cứ vương vấn trong lòng điều gì thì trước hết mình khổ, đối tượng mình giận mình hận mình thù tốt hơn là hãy quên đi.

Nói đến hãy quên đi, tôi nhớ mài mai cũng là tựa đề một bài giảng của một tôi tớ Chúa khi ông có dịp qua thăm Mỹ và một số hội thánh tại nam và bắc Cali. Trong bài chia sẻ phần mở đầu ông có nhắc nhiều về một thời đã là tù nhân Cộng sản sau ngày 30-4-75. Giọng điệu vẫn còn cay đắng tuy có pha chút châm biếm, nhưng ông khuyên mọi người nên quên dĩ vãng như chính ông đã quên. Bài giảng rất chân tình, xúc tích và được ơn, khi nghe trên mạng tôi học hỏi được nhiều điều.

Mấy tuần sau  ông xuống nam Cali, và lại chia sẻ lời Chúa  tại hội thánh tôi. Nhưng lần này là một đề tài khác mang tính dạy dỗ, không đi sâu vào những trải nghiệm cá nhân. Rất tiếc, nếu ai để ý thì vẫn thấy ông kể chuyện ở tù dù chẳng có liên hệ gì đến bài chia sẻ. Cuối phiên nhóm, trên lối vào phòng dùng potluck, tôi đã gặp ông và vui miệng nói, “như vậy là thầy vẫn chưa quên?”. Ông vốn tinh ý hiểu ngay ý tôi và trả lời vui vẻ (bằng một giọng Quảng đặc sệt dễ thương) đại để, mải nói nên tự nhiên nhắc lại chuyện xưa, chứ tôi cũng như anh mình nhớ để làm gì…

Để khép lại bài viết, không gì thích hợp hơn tôi muốn bà con mình trở lại câu Kinh Thánh mà mục sư  Nguyễn Quốc Thái  trong bài viết hồi niệm về những ngày đầu tin  Chúa, động cơ giúp ông thật lòng tìm về với đức tin chính là được cảm động về câu nói của Chúa Giê-su khi Ngài sắp trút hơi trên cây thập tự đã tỏ lòng độ lượng vô biên với những kẻ đã hãm hại mình khi  khẩn cầu Cha của Ngài ở trên trời, “ Xin Cha tha tội cho họ vì họ làm điều mình không biết”.

Đỗ Xuân Thảo

Read more…

TỪ NGÀY THỨ NHẤT ĐẾN NGÀY SA-BÁT

3:07 PM |
       Tháng 9 năm 1957 tôi vào trường Kinh thánh của Giáo hội Truyền Giáo Cơ Đốc ở Đà nẵng, đến mùa Nô-ên năm ấy bà S. vợ ông hội trưởng đạo diễn cho các học viên trình diễn kịch bản về sự tích Chúa Giê-su giáng sinh, do bà sáng tác và dàn dựng. Trong đêm tổng diễn tập, trong lúc hóa trang, bạn tôi là L.A.T hỏi bà S. : Đạo Sa-bát (tiếng gọi thiếu tôn trọng) là đạo gì vậy bà? Bà trả lời: xấu lắm, xấu lắm, họ tin rằng khi chết linh hồn nằm ở âm phủ…v.v… đó là tà giáo. Tôi ngạc nhiên, trong lòng nghĩ rằng: sao bà là một giáo sĩ mà nói những lời như vậy! Trước đây tôi là tín đồ Cao Đài, nên theo sự dạy dỗ của đạo ấy không nên nói xấu hay mạt sát đạo khác.

Do sự việc đó, khơi dậy tính tò mò của tôi, thế rồi một tối thứ sáu tôi rủ bạn tôi cùng đến nhà thờ Cơ Đốc Phục Lâm ở Đà nẵng. Đêm đó ông Hội trưởng Tổng hội Viễn Đông giảng bằng tiếng Anh qua sự thông dịch tiếng Pháp của ông Hội trưởng Liên hiệp hội Đông Nam Á, Mục sư Nguyễn Văn Xuân dịch qua tiếng Việt. Đêm đó diễn giả đã giảng về sự chết của Chúa Giê-su để chuộc tội cho nhân loại… Tôi ngạc nhiên và tự nhủ: như vậy thì làm sao gọi là tà giáo? Họ có giảng sai tinh thần Giăng 4:2,3 đâu. Khi ra về Mục sư Xuân tặng một số sách nhỏ, trong đó có quyển “Hội thánh nào là thật”, nêu lên lẽ thật ngày Sa-bát. Đem về tra cứu  một thời gian ngắn, tôi tiếp nhận lẽ thật trong lòng. Tôi viết thư liên hệ với ông Hội trưởng Giáo hội ở Sài gòn tỏ bày sự nhận định lẽ thật của mình, và xin thêm sách đọc. (Nhưng vẫn tiếp tục học trường Kinh thánh của Giáo hội Truyền giáo Cơ Đốc)

Vì đây là một giáo hội mới và mở rộng, nên cần người đi “vỡ đất mới”, do đó mỗi khóa học 1 năm đưa học viên “ra đồng lúa” thay các bạn cũ về học năm thứ hai. Tôi được đưa đến huyện Hoài ân, tỉnh Bình định, nơi đây chưa có một tín đồ nào. Tự mình đi “khẩn hoang”. Mỗi truyền đạo phải rao giảng cả cho người Kinh lẫn người Thượng du.

Từ ngày nhận lẽ thật ngày Sa-bát, tôi không dùng từ thánh nhật cho ngày thứ nhất nữa.

Ở đây hai năm (1958 và 1959) Chúa cho được 10 người chính thức tiếp nhận Chúa. Đây là một vùng Thiên Chúa giáo rất đông, cũng gặp không ít khó khăn, kể cả dư luận rằng đã có sự bắt bớ của chính quyền ở những nơi khác. Trong hai năm này tôi nhận thấy dân chúng ở đây rất e-dè chính quyền. (Thời kỳ thịnh vượng của chính quyền Ngô Đình Diệm).

Hết kỳ hạn tôi trở về học năm thứ hai. Trong hai năm này tôi vẫn thư từ trao đổi với Mục sư Lê Hựu, vì ông được ông Hội trưởng lúc đó là ông Tilstra giao phó việc này.

Ra trường tôi được đưa đến Cam lộ, Đồng hà, Quảng trị, chuyên rao giảng cho người Kinh. Cùng hầu việc Chúa có ông bà Giáo sĩ Spraget, người Anh, và ở làng trên có ông N.T.Phấn phụ trách miền Thượng.

Tôi lại nhận và viết thư cho Mục sư Lê Hựu để khẳng định niềm tin ngày Sa-bát của mình và trao đổi vài vấn đề khác.

Đầu năm 1962 nhận được thư của Mục sư Lê Hựu báo tin Giáo hội sắp mở một khóa Kinh thánh đào tạo những người tình nguyện đi hầu việc Chúa mới, và khuyên tôi nên quyết định. Nhận được thông báo, tôi viết thư trao đổi và hỏi xem cung cách để được theo học. Theo tập quán của Giáo hội thì những mục sư, truyền đạo hoặc linh mục các giáo phái bạn khi gia nhập Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, thì họ chỉ học một năm để hiểu hết những giáo lý đặc thù mà thôi.

Tôi viết một lá thư xin từ chức truyền đạo gởi Ban Quản Trị của Giáo hội Truyền giáo Cơ Đốc. Nhận được thư từ chức, họ cử ông Hội trưởng người Việt là Mục sư H. T. Nhựt đến gặp tôi để biết rõ lý do từ chức của tôi. Vừa gặp lúc tôi về Đà nẵng thăm nhà tôi đang ở bệnh viện hộ sản, Mục sư H.T. Nhựt gọi tôi đến văn phòng. Ông muốn tôi cho biết lý do từ chức. Vì không muốn phiền lòng, tôi xin lỗi cho tôi miễn trả lời lý do, tôi nói với ông tôi đi vài ngày thôi thì các ông sẽ biết, vì tôi có nói cho người hầu việc Chúa ở nhiệm sở gần tôi biết lý do tôi đi. Mục sư Nhựt đưa ra tiếp ba câu hỏi:

- Tôi nghe nói thầy sẽ viết báo cho một đoàn thể nào đó?

- Tôi nghe nói thầy trở lại đạo Cao Đài?

- Tôi nghe nói thầy sẽ đến với đạo Sa-bát (tiếng thiếu tôn trọng)?

Sau mỗi câu hỏi ông đều giảng cho tôi rất nhiều, đại khái là dùng Kinh thánh khẳng định những việc tôi định làm là không đúng.

Tôi yên lặng và giữ lễ độ đối với bậc thầy.Ông nói xong tôi xin phép thưa: Thưa ông, tôi ra đi có mục đích, nhưng xin ông cho phép tôi được yên lặng, vì vài ngày sau tôi đi, chắc chắn quí ông biết rõ.

Trước khi lên đường, ông Mục sư N.V.Lịch Tổng Thư Ký Giáo hội mời tôi ăn cơm, và tỏ bày: nếu thầy thấy ngoài đó quá khó khăn, chúng tôi chuyển thầy về làm Tuyên úy ở Cô Nhi viện An Hải…(bên kia sông Hàn Đà nẵng).Tôi nói mấy lời cảm ơn và xin lỗi.

Trong thời gian này ông Hội trưởng Tilstra ra thăm Đà nẵng, Mục sư Phạm Thiện theo ý ông Hội trưởng cho người gọi tôi đến gặp. Tôi đến, ông Tilstra nói chuyện với tôi rất lâu, hỏi tôi về niềm tin và nhất là lẽ thật ngày Sa-bát. Ông cho tôi biết sự học tập của các học viên trường Kinh thánh là hoàn toàn tự túc, Giáo hội không có trợ cấp, chỉ tạo điều kiện cho các học viên đi làm ngoài giờ học để nuôi sống mình và đóng học phí.

Ông biết vợ tôi có học về y tế, Giáo hội có bệnh viện, nhưng ông không hứa hẹn điều gì cả, vì việc đó thuộc quyền của Ban Quản đốc Bệnh viện. Tuy nhiên ông cũng có thể trình bày với họ về trường hợp của chúng tôi, việc thu nhận hay không ông chưa biết. Ông khuyến khích tôi, vì đây là khóa học rất thuận lợi cho các học viên.

Ông tỏ ý muốn gặp vợ tôi, bà sinh được 20 ngày, vợ tôi đến, ông hỏi vợ tôi có tin vào ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su không? Và  chị tin nhận Chúa khi nào? Nhà tôi trả lời là bà tin nhận Chúa từ trong bụng mẹ… và cha mẹ đang hầu việc Chúa. Ông dặn dò nhà tôi hãy khuyến khích tôi, để tôi có thể tiếp tục học và trở nên một nhà truyền giáo tốt trong tương lai.

Tôi vào Sài gòn, đến gặp Mục sư Lê Hựu, các ông bàn bạc cho gia đình tôi tạm ở trong nhà tiền chế bỏ trống sau nhà thờ Phú Nhuận. Họ cũng báo tin cho biết Bệnh viện Cơ Đốc cũng đã nhận vợ tôi làm điều dưỡng phụ. Tạm ổn định chờ ngày nhập học.

Học xong năm đầu tiên, trong cuộc họp của ban Trị Sự Địa Hạt, Mục sư Lê Hựu nhắc đến việc tôi đã xong năm học, theo qui định cho tôi ra trường để đi truyền đạo. Ban Trị Sự, nhất là hai ông Hội trưởng Tilstra và Đốc học Burton, quyết định cho tôi học đủ cả ba năm. Mục sư Tilstra gọi tôi đến nhà ông, có Mục sư Lê Hựu thông dịch, ông cho tôi biết: thật ra sau khi tôi đến đây, các ông có cho người đến dò hỏi những người quen biết bên Giáo hội Truyền Giáo Cơ Đốc về tôi, và bây giờ sau một năm học, Giáo hội đã quyết định để tôi học tiếp cho đến khi tốt nghiệp. Để tôi an tâm ông báo cho biết Giáo hội sẽ cấp một học bổng hầu tôi có thể tiếp tục chương trình học,  bù lại tôi phải làm việc cho nhà trường Trung Tiểu Học Cơ Đốc Sài gòn 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày.

Thế là tôi tiếp tục học, và rất thích thú đối với tôi là ngoài Kinh thánh ra còn có những môn học mới để mở mang kiến thức như: Lịch sử thế giới, Tâm lý học quần chúng, Sinh vật học, Tiến hóa thuyết hay Tạo hóa thuyết v.v…

Tốt nghiệp xong tôi đi hầu việc Chúa cho đến bây giờ.

Con đường từ ngày thứ nhất đến với lẽ thật ngày Sa-bát là như vậy đó.

Tạ ơn Đức Chúa Trời về sự dẫn dắt tôi từ một chỗ tối tăm đến với ánh sáng của Ngài, và bảo bọc cho tôi qua bao đoạn đường cam go cho mãi đến hôm nay. A-men!
Nguyễn Quốc Thái
Photograph by Thi Tăng

Read more…

Tiến trình xây dựng Nhà thờ Túy Loan

11:14 AM |
Bởi lòng yêu thương cùng lời cầu nguyện của Quý vị, ước nguyện của Cố Mục sư Phạm Thiện đã được toại nguyện. Thánh Đường Cơ Đốc Phục Lâm Phú Hòa, đã được xây cất và hoàn thành. Thánh Đường sẽ được Dâng Hiến và Khánh Thành vào ngày 21 tháng 4 năm 2013.
Read more…

Suy ngẫm cuối tuần

11:12 AM |
Triết lý viên kẹo

     Mỗi ngày bạn đều cho một đứa trẻ ăn kẹo. Bạn làm điều ấy rất thường xuyên và vui vẻ. Đứa trẻ ấy cũng có vẻ rất yêu bạn. Mỗi ngày thấy bạn, nó đều cười tươi và chạy đến nhận kẹo.
     Nhưng rồi một ngày, bạn xoa đầu nó và bảo: “Hết kẹo rồi”. Bỗng dưng bạn thấy nó rất khác. Nó gào ầm lên rằng bạn keo kiệt, bạn xấu xa. Hoặc nó đi khắp nơi để nói xấu bạn.
     Triết lý viên kẹo có nghĩa là khi bạn cho ai khác một thứ gì, nhiều khi họ sẽ không nghĩ ấy là món quà, họ nghĩ đó là bổn phận, là trách nhiệm. Và khi bạn không cho thứ mà họ muốn nữa, họ sẽ lập tức trở mặt với bạn.

Với nhiều người, cho dù bạn có cho họ kẹo mỗi ngày, thì họ cũng chỉ nhớ mỗi một ngày mà bạn đã không cho. 


Câu chuyện từ cây sơri

     Khi George Washington khoảng sáu tuổi, cậu có được một chiếc rìu rất sắc bén.
     Như hầu hết mọi đứa trẻ khác cậu rất thích nó. Cậu dự định sẽ chặt hết thảy mọi thứ mà cậu gặp.
     Một ngày nọ, cậu đi lang thang trong vườn và lấy làm thích thú vì cậu đã chặt mất cây đậu Hà Lan của mẹ. Thấy một cây sơri còn nhỏ giống Anh quốc, cậu thử dùng lưỡi rìu chặt cành cây và cạo vỏ cây để thử độ bén của chiếc rìu nhỏ.
     Một thời gian sau, cha cậu phát hiện được chuyện gì đã xảy ra với cây sơri yêu quý của ông - cây sơri nhỏ bé đã chết. Ông đi vào nhà vô cùng giận dữ, hỏi gặng xem ai đã làm chuyện đó với cây sơri. Không ai có thể nói cho ông biết bất cứ điều gì về chuyện đó.
Lúc ấy, cậu bé George cũng vừa đi vào phòng.
     “George này,” cha cậu nói, “Con có biết ai đã chặt mất cây sơri còn nhỏ ở đằng kia không. Cha đã phải tốn mất năm đồng ghine để mua cái cây đó.”
     George thật khó mà trả lời. Sau một thoáng phân vân, cậu nhanh chóng lây lại bình tĩnh và ...òa khóc: “Cha ơi, con không thể nối dối. Cha biết là con không thể nói dối mà! Chính con đã chặt cây sơri bằng chiếc rìu nhỏ của con.”
     Cơn giận dữ của người cha tan biến hết, ông dịu dàng ôm cậu bé vào lòng và nói: “Con trai của ta, chính sự sợ hãi của con khi con thú nhận với ta đã là sự thật đáng giá hơn hàng ngàn cái cây khác.    Đúng đấy con trai ạ, dù những cái cây đó có nở ra những bông hoa quý giá như bac và những chiếc lá quý như những miếng vàng nguyên chất nhất cũng không quý bằng sự dũng cảm biết nhận ra lỗi lầm của mình!”.


Giữ lòng vui


     Có câu chuyện về “Tin Vui” như sau:
Robert De Vincenzo là một vận động viên đánh gôn xuất sắc người Argentina. Lần nọ, anh đăng quang trong một giải đấu. Khi nhận chi phiếu tiền thưởng xong và chụp hình lưu niệm với báo chí, anh trở lại tòa nhà câu lạc bộ để chuẩn bị ra về.
     Lát sau, khi anh đang một mình đi ra bãi đậu xe thì một phụ nữ trẻ tiến đến gần anh. Cô ta chúc mừng chiến thắng của anh, rồi kể cho anh nghe về đứa con đang bệnh nặng và khó qua khỏi của mình. Hiện thời, cô không biết phải làm sao để thanh toán tiền khám chữa bệnh và viện phí cho đứa bé.
     De Vincenzo xúc động trước câu chuyện của người phụ nữ, liền lấy bút ký vào tấm chi phiếu tiền thưởng của mình và đưa cho người phụ nữ. "Xin cô nhận để lo cho cháu bé”, anh vừa nói vừa dúi tấm chi phiếu vào tay cô.
Tuần sau, trong bữa ăn trưa ở câu lạc bộ, một viên chức của Hiệp hội đánh gôn chuyên nghiệp đến bàn của anh và nói:
- Mấy đứa trẻ ở bãi đậu xe vào tuần trước nói với tôi rằng anh có gặp một phụ nữ ở đấy sau giải?
De Vincenzo gật đầu. Ông ta nói tiếp:
- À, tôi có tin này cho anh hay. Cô ta là một tay lừa đảo. Cô ta chẳng có đứa con nào bị bệnh cả. Ả còn chưa lập gia đình nữa là. Cậu đã bị gạt rồi, anh bạn ạ.
Vincenzo hỏi lại:
- Ý của ông là chẳng hề có đứa bé nào sắp chết cả phải không?
- Đúng vậy, ông ta đáp.
- Đó là tin vui nhất trong tuần này mà tôi nghe được đấy! De Vincenzo nói.


Chữ "Nhẫn" đứng đầu trăm nết

 
Ông Tử Trương muốn đi xa, đến chào Đức Khổng Tử và xin Ngài một lời khuyên.
Đức KhổngTử nói: “Chữ “nhẫn” đứng đầu trăm nết.
Nhưng “làm sao phải nhẫn?” Trương Tử hỏi lại.

Đức Khổng Tử trả lời:

- Thiên Tử mà nhẫn thì nước không sinh hại.
- Chư hầu mà nhẫn thì nước sẽ mạnh lớn thêm.
- Quan lại mà nhẫn thì chức vị sẽ thăng tiến.
- Anh em mà nhẫn thì cửa nhà giầu sang.
- Vợ chồng mà nhẫn thì ở được với nhau trọn đời.
- Bạn bè mà nhẫn thì thanh danh không mất.
- Hễ nhẫn thì không lo tai hoạ.

Ông Trương Tử hỏi lại: “Nếu bất nhẫn sẽ ra sao?
 

Đức khổng Tử nói:

- Thiên Tử mà bất nhẫn thì nước sẽ trống không.
- Chư hầu mà bất nhẫn thì mất mạng.
- Quan lại mà bất nhẫn thì sẽ bị hình phạt.
- Anh em mà bất nhẫn thì sẽ chia rẽ.
- Vợ chồng mà bất nhẫn thì phải xa nhau (ly thân, ly dị).
- Tự mình mà bất nhẫn thì không thể tránh được lo lắng.

Trương Tử nói: “Phải lắm ! Phải lắm !



CHURCH SERVICES of THE FUTURE

PASTOR: "Praise the Lord!"
CONGREGATION: "Hallelujah!"
PASTOR: "Will everyone please turn on their tablet, PC, iPad, smart phone, and Kindle Bibles to 1 Cor 13:13.
And please switch on your Bluetooth to download the sermon."
P-a-u-s-e......
"Now, Let us pray committing this week into God's hands.
Open your Apps, BBM, Twitter and Facebook, and chat with God"
S-i-l-e-n-c-e

"As we take our Sunday tithes and offerings, please have your credit and debit cards ready."
"You can log on to the church wi-fi using the password 'Lord909887. ' "
The ushers will circulate mobile card swipe machines among the worshipers:

Those who prefer to make electronic fund transfers are directed to computers and laptops at the rear of the church.
Those who prefer to use iPads can open them.
Those who prefer telephone banking, take out your cellphones to transfer your contributions to the church account.

The holy atmosphere of the Church becomes truly electrified as ALL the smart phones, iPads, PCs and laptops beep and flicker!
Final Blessing and Closing Announcements...

This week's ministry cell meetings will be held on the various Facebook group pages where the usual group chatting takes place. Please log in and don't miss out.
Thursday's Bible study will be held live on Skype at 1900hrs GMT. Please don't miss out.
You can follow your Pastor on Twitter this weekend for counseling and prayers.
God bless you and have nice day
Read more…

Chuyện bút danh và niềm vui chứng đạo

3:15 AM |
 


Đỗ Xuân Thảo

Dù muốn hay không muốn, ai đi vào con đường viết lách cũng muốn tìm cho mình một bút danh. Chuyện này xem ra cũng bình thường. Nhớ lại vào đầu thập niên ’60, theo yêu cầu của một linh mục hiệu trưởng một trường tư thục nhỏ ở thành phố biển, mấy anh em chúng tôi những kẻ ngoại đạo đã lấy vài biệt danh cho dễ nổi khi quảng cáo cho trường. Tôi chẳng khó khăn gì khi chọn cho mình danh xưng thầy Xuân Đỗ, chuyên dạy văn & sử. Mấy ông kia chuyên đề các môn khoa học và ngoại ngữ cũng chọn mấy cái tên khá kêu, đến nay ra hải ngoại có người đã dịch thơ Du Tử Lê và tiểu thuyết văn học Mỹ, có ông viết cả một bộ trường thiên tiểu thuyết dã sử được đánh giá cao. Ít năm sau, thầy hiệu trưởng đi tu nghiệp ở chủng viện Mỹ rồi người ở lại luôn, các thầy giáo trẻ bị động viên vô lính, các thầy lớn tuổi thì học trò (đa số là nữ) không thích nên đổi trường. Tư thục tan hàng từ đó, các biệt danh một thời cũng theo gió mà bay.

Tưởng chẳng bao giờ còn ngó ngàng đến cái tên Xuân Đỗ, bỗng bốn mươi năm sau, nhân có hai tờ  báo lớn ở quận Cam họ tổ chức các giải thi viết về hai chủ đề liên quan đến cộng đồng hải ngoại, một viết về những câu chuyện thực nhằm trao đổi những kinh nghiệm sống trên nước Mỹ, một viết về chuyện tù cải tạo thuật lại các trải nghiệm trong tù sau chiến tranh. Lúc này tôi đang sống xa quận Cam nên được một ông bạn H.O. nhắn lại, ‘tao thấy mày có thể viết được, giá chót cũng ăn giải khuyến khích (báo nào cũng định giá 300 đô), tham gia cho vui, có tiền nhớ kêu tao.’

Biết mình có cả ‘kho’ chuyện do bà vợ thường hay trao đổi, lại có cả tiền mặt, tôi hăm hở hưởng ứng ngay. Chợt suy nghĩ lại xưa nay toàn viết loại văn tuyên truyền chính luận bây giờ dưới dạng văn chương bút ký muốn ăn giải cũng khó, nhất là sau này ra hải ngoại nhiều ông lính cựu quay sang cầm bút viết truyện đời mình, viết cho đồng đội, viết cho cộng đồng, tài hoa cũng đáng nể, thôi kệ cứ viết nếu cần cóp lại giọng văn của mấy ông (bà) nhà văn mình hâm mộ.

Kết quả sơ khởi bài viết chuyện tù cải tạo của tác giả Xuân Đỗ được chọn làm bài đăng trong số báo khai trương cho giải, có cả phần minh họa nội dung với bức tranh cảnh tù Yên bái của một họa sĩ tên tuổi chiếm 1/4 trang báo của tờ Viễn Đông. Tự tin là có thể nhận được ‘tiền mặt’ ở giải cao hơn, nhưng kết quả so với hai trăm truyện dự giải cũng chỉ khiêm tốn ở mức…khuyến khích.  Sau này hỏi nhà văn Văn Quang (giám khảo), ông nói truyện đó hay nhưng người ta yêu cầu những trải nghiệm máu và nước mắt, cậu lại đem khía cạnh nhân bản tình người qua câu chuyện giữa viên trại trưởng và người tù (đều là lính của hai bên). Nói vậy chứ về sau cũng được đưa vào tuyển tập.

Ngày phát giải tôi có đưa bà xã cùng đi dự. Giữ lại tấm bằng tưởng lệ, tôi trao chi phiếu ba trăm cho người vợ đã chia ngọt sẻ bùi trong thời gian xa nhau mười hai năm có lẻ. Bỗng tình huống xoay trở ngoài dự kiến. Trên đường ra parking bà vợ đột nhiên quay lại tòa báo, gặp bà Hạnh Nhơn đang ngồi quyên tiền cho TPB và nói, ‘xin chị nhận cho em tấm check này, để em nhờ họ sửa thành tên chị cho  quỹ TPB/HO của chị’. Bà già 83 tuổi người mẹ tinh thần của các Thương phế binh tại quê nhà vội vàng gạt phắt, ‘chị đang ăn tiền già đừng đề tên chị, em cứ bảo họ đề tên của Quỹ cho danh chính ngôn thuận’. Bà cũng không quên lấy tên để đăng báo danh sách ân nhân, nhưng được trả lời xin chị cứ ghi ‘ẩn danh’.

Hơn một năm sau, tôi lại có tên trong danh sách ứng viên giải chung kết Viết Về Nước Mỹ, sau khi đã viết liên tục 11 truyện đóng góp trong vòng một năm trên Việt Báo (đến nay đã có cả hơn 200.000 lượt người đọc). Được giải rồi, tôi quyết định không tham gia các năm kế tiếp, tôi biết nếu tiếp tục sẽ có thêm ‘tiền mặt’. Tôi quay sang viết cho nhiều báo ở quân Cam và các trang web (tất nhiên không có nhuận bút và họ đăng cho là vui rồi). Bút hiệu Xuân Đỗ lẽo đẽo theo tôi từ đây và niềm vui tuổi già không gì bằng được đọc và viết để chia sẻ cùng đồng hương những trải nghiệm buồn vui trên đất Mỹ.

Nhờ mấy cái giải thưởng của báo giới, bút danh của tôi dần dần xuất hiện trên các tạp chí văn chương và các trang mạng văn học, từ Tân Văn cho đến Da Màu, Tiền Vệ, Sáng Tạo, từ T.Vấn & bạn hữu cho đến Talawas, Giao cảm, Cỏ thơm…nhìn chung bài vở được các chủ biên ân cần đón nhận, có tờ còn coi tôì là cây viết chủ lực. Tôi có duyên với các truyện thuộc mảng đề tài về tù cải tạo, cuộc sống ở Mỹ và các bài tạp ghi, điểm sách văn học.

Tuy không khó khăn chuyện đăng tải gửi bài, nhưng lại long đong chuyện bút danh bút hiệu. Số là khi viết cho Sài gòn Nhỏ bài vở khá đều, một hôm nhận được e-mail của bà Chủ Bút/Chủ nhiệm liên quan đến một bài viết về Thầy Thích Thanh Long (truyện Thầy & tôi). Bà chuyển nguyên văn điện thư của một nữ độc giả tiết lộ là ông Xuân Đỗ không ở cùng Thầy trong trại, ông không hề ra Bắc, bút hiệu là tên của một tác giả khác, chuyện viết về Thầy cũng không được chính xác lắm v.v…Chuyện khá dài dòng nhưng chỉ biết người nữ độc giả cũng có lý của bà, khi có một tác giả khác cũng trùng tên…Xuân Đỗ, ông này có đi tù nhưng không ra Bắc, ông đã có một tác phẩm xuất bản liên quan đến chuyện tù. Tên ông là Đỗ Xuân Tr., người quê Hội An, bạn đồng nghiệp của nhà văn Đỗ Tiến Đức và được ông  Đức chọn cho bút danh Xuân Đỗ theo kiểu Mỹ đọc ngược. Trùng hợp là ông cũng cộng tác với SGN, tôi biết nhưng cứ ỷ y là biệt hiệu mình đã chọn từ những năm ’60, cũng chẳng ăn theo gì danh tiếng của ông, lại tiếc cho cái bút hiệu của mình vun bồi mãi mới thành danh, các giải thưởng hình chụp báo đăng đều đề tên XĐ, nên đi hỏi ý kiến mấy bạn văn thì họ bảo anh cữ giữ, thiếu gì các tác giả trùng tên.

Đang phân vân thì trùng lúc sau này mấy bài viết của ông XĐ ‘thật’ không được hay lắm lại sợ mang tiếng tiếm danh, XĐ ‘giả’ là tôi quyết chí đi tìm một bút danh mới. Thế là cái tên Đỗ Xuân Tê ra đời từ đây.

Tôi khai trương bằng một truyện ngắn tâm đắc, ‘Giọt lệ cho người xứ Bùi’ viết về người tù đầu tiên nằm lại Yên bái và được chọn đăng ngay dù là tác giả …mới. Có một người không vui là nhà văn Huy Phương, người cùng đơn vị cũ, ông bảo ít ai có cái tên đẹp như anh, sao không lấy tên Đỗ xuân Thảo cho nó ổn. Thế rồi cái chuyện ‘Một cỗ xe trâu’ nhờ ông cho đăng trên Người Việt và mấy bài tôi viết cảm nghĩ về tác phẩm của ông, ông vẫn để tên thật của tôi…theo ý ông!

Chuyện tìm một bút danh nhìn lại cũng nhiêu khê, nhưng vốn đam mê với chữ nghĩa và coi nó như liều thuốc hồi xuân cho tuổi già, nên tôi vẫn tiếp  tục viết. Sau này tôi mới hiểu có khi lại là một ‘ân sủng’ khi người viết biết dùng ngòi bút của mình làm chứng đạo trên các trang mạng tâm linh của hội thánh nhà.

Tôi nhớ khoảng cuối 2006, tình cờ tôi gởi một bài tôi dịch từ Anh ngữ, có tựa đề ‘Thông điệp từ một cuốn Sách’ cho nguyệt san Tiếng Nói Hy Vọng do MS Nguyễn Khắc Vinh chủ biên. Tôi  lấy tên thật và Mục sư đã cho đăng ngay. Dù chưa biết tôi có khả năng viết lách nhưng về dịch thuật ông mời tôi tham gia Ban chuyển ngữ Bài học Sa-bát, dần dà ông khuyến khích tôi viết bài cho TNHV cho vui. Lúc đầu tôi phân vân vì không quen viết chứng đạo, sau nể lời tôi thử tham gia. Chẳng tìm đâu xa, tôi lấy ngay những gương người thật việc thật của đạo mình từ hồi còn ở hội thánh Phú nhuận và sau này ra hải ngoại, cùng những trải nghiệm của gia đình tôi tìm về với Chúa, viết thành các bài chứng đạo và may thay được mục sư chủ nhiệm và tín hữu xa gần e-mail ân cần khích lệ.

Đáng chú ý là chỉ ít lâu sau, trang web đầu tiên của CĐPL người Việt tại hải ngoại có tên tinhưu.net do anh Tăng Thi quản trị miền và đứng Chủ biên đã đăng một lúc 5 bài viết tiêu biểu của tôi trích từ TNHV. Anh Võ Sua thông báo cho tôi, rồi như có duyên và được ơn tôi tham gia thường xuyên cho trang nhà từ ngày ấy (xin xem bài viết kỷ niệm 5 năm Tinhưu.net ra mắt Năm năm - một chặng đường (2011). >> http://www.tinhuu.net/Nnmcd ...

Cũng nhân viết về niềm vui chứng đạo, tôi rất cảm kích khi có cơ may những bài viết của mình được chọn đăng lại trên nguyệt san Muối của Đất và vài trang mạng CĐPL trong nước và chỉ một năm mới đây lại có dịp xuất hiện trên diễn đàn Cựu Học Sinh Cơ Đốc mà tôi biết behind the scene có sự góp tay của chị Kim Cúc, một sân chơi dành cho những ý kiến liên quan đến sinh hoạt hội thánh và cộng đồng không nhất thiết là quan điểm chính thức của Giáo hội hoặc thừa nhận bởi nhóm Chủ biên. Bản thân tôi xem ra hạp với diễn đàn này vì giúp tôi viết được thoải mái hơn về những vấn đề bà con tín hữu cùng quan tâm.


Đỗ Xuân Thảo


Read more…

Từ đạo Cao Đài đến với Chúa Giê-su

3:15 AM |
http://hung227.files.wordpress.com/2011/11/tinhque.jpeg
( Thân tặng chị Huỳnh Mai tại Hội thánh El Monte và anh chị em về với Chúa từ Cao Đài )
Nguyễn Quốc Thái.

          Không hiểu sao trong lúc bệnh lần này tôi có ý định viết một bài làm chứng về cuộc đời tin kính của tôi, tôi cảm nhận rằng việc đó, có một chương trình sắp đặt của Đức Chúa Trời từ khi tôi bắt đầu phải tranh đấu cam go cho cuộc hôn nhân của tôi.
         Lúc còn nhỏ, tôi đã từng theo gia đình đi lễ rằm, mùng một hằng tháng đến cúng lễ trong Thánh thất đạo Cao Đài xa hằng 5 đến  7 cây số, đôi chân bé nhỏ đi qua những con đường sỏi đá dưới trời nắng gay gắt; lúc gặp mùa lụt phải lặn lội đi trên chiếc cầu khỉ cheo leo nguy hiểm, vì những suối nước đã ngập… Và cứ thế tôi lớn lên cho đến lúc thiếu niên, vào học một trường tiểu học của đạo. Lớn hơn một chút nữa thì tuyên thệ gia nhập đạo Cao Đài, lời tuyên thệ rất ghê rợn đối với những người thưở đó (thập niên 1940-1950) trong đó có câu  “ … nếu trái lời thì bị ngũ lôi thần hành phạt tại thế”. Đến tuổi thanh niên theo học những lớp giáo lý, giáo luật v.v… cho đến khi tôi thuộc rõ nằm lòng.
          Thời Pháp thuộc các nhà cầm quyền địa phương thường hay xét nhà và gây rắc rối, rồi  đến thời chiến tranh lại bị khốn đốn trăm điều.Tôi được may mắn đọc sách nhiều nên tâm trí được mở mang hơn, tôi liền có sự nghi ngờ những điều mình đã tin nhưng chưa có thái độ gì.
          Trong chiến tranh Việt Pháp tôi ở vùng kháng chiến. Tôi và nhà tôi (vợ tôi) ở cùng xóm, hay đi sinh hoạt thanh niên với nhau, rồi cảm mến nhau nhưng gia đình chưa biết, vì gia đình bên vợ tôi thuộc giáo phái Tin lành, và sự khác tôn giáo đó là rào cản lớn nhất. Từ năm 1952 kéo dài đến 1954, gia đình nhà tôi mới biết được và nhiều việc rắc rối xảy ra. Vì tôi có công tác trong đoàn thanh niên xã, nên đoàn thể đến vận động và đã bị phản đối kịch liệt.
           Trải qua 6 tháng trường thân sinh của vợ tôi tìm đủ mọi mưu kế cách li chúng chúng tôi, có lúc đã xin giấy phép cho nhà tôi về ở với bà ngoại thuộc vùng Pháp chiếm đóng, vì như thế tôi không thể vào vùng ấy được.
      Nhà tôi cho biết tin ấy, tôi tìm cách chận đứng kế hoạch của “ông già vợ” tương lai, nhưng chẳng có cách gì tiến đến hôn nhân. Cuối cùng tôi tìm đến hỏi ý kiến hai người trí thức có Nho học, hai cụ đều có cùng một ý kiến. Trong binh pháp có 36 kế, kế thứ 36 là “tẩu”, có nghĩa là bỏ trốn. (Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng sách). Thế là tôi kể cho nhà tôi biết ý kiến của hai nhân sĩ, và vận động bà bỏ trốn cùng tôi trong 1 tháng rồi sẽ trở về thì mọi việc đã rồi. Thật ra nhà tôi không dễ nghe theo đâu, nhưng có một điều tôi biết chắc là vì yêu tôi một phần, phần nữa là bị mẹ la mắng hoài, đối xử cay nghiệt… nên bà nghe theo tôi. Chúng tôi đã đến với một anh bạn thân của  anh trai tôi, anh ấy rất thương tôi nên bảo bọc cho chúng tôi. Sau gần một tháng tôi trở về. Lúc này lại nhằm hiệp định đình chiến Geneve ra đời, sau một tháng ông bà gọi chúng tôi đến ngỏ ý rằng: chiến tranh dai dẳng mà còn chấm dứt thì sao việc gia đình lại không thể. Từ đó ông bà khuyên nhủ chúng tôi hãy tiếp nhận Chúa. Tôi chỉ nghe rồi thôi không tiếp nhận lời kêu gọi của ông bà.
          Về nhà chúng tôi tổ chức lại cuộc sống mới cũng tạm ổn, nhưng tình cảm gia đình chẳng tiến triển mà thêm lạt lẽo. Chúng tôi bán hết ruộng trâu đi vào Ninh thuận trồng thuốc lá, cuộc sống dần dần ổn định, lâu lâu được thư gia đình khuyên nhủ. Còn nhờ ông Mục sư N.L.T ở Phan rang đến giảng đạo cho tôi, tôi đã tranh luận gắt gao, họ chán quá bỏ cuộc, tuy vậy thư từ vẫn gởi đến.
          Có một hôm đi làm về, nhà tôi đưa tôi một phong bì, lần này thư dài hơn, báo cho biết ông bà đã đi hầu việc Chúa trong Hội Truyền Giáo Cơ Đốc. (Ông bà trước chiến tranh có học trường Kinh Thánh Tin Lành ở Đà nẵng, nhưng gặp lúc chiến tranh Nhật Pháp nên về nghỉ). Ông bà khuyên chúng tôi về tiếp nhận Chúa, tương lai vào trường Kinh Thánh học. Xem thư xong cũng như mọi khi, tôi để đó và đi ăn cơm, chẳng tỏ thái độ gì. Đêm đó, ngủ đến độ một giờ sáng, đang ngủ say sưa, trong mơ màng nghe như có tiếng rì rầm văng vẳng, càng lúc càng rõ hơn và nghe cả tiếng thổn thức. Lần lần tôi tỉnh ra và biết rằng vợ tôi đang cầu nguyện và khóc thổn thức. Để cho bà cầu nguyện xong nằm xuống, tôi hỏi nếu anh nghe lời cha mẹ trở về, em có vui không? Vợ tôi cười khảy vì bà biết rằng tôi rất cứng đầu, khó có việc đó. Từ đó về sáng tôi không ngủ được, chỉ suy nghĩ, cân nhắc về giáo lý Cao Đài. Cao Đài lý luận rằng: Vạn giáo nhất lý, nghĩa là dù có muôn tôn giáo nhưng chân lý chỉ có một. Chứng minh bằng một ví dụ: một cái lồng đèn 5 cạnh, năm mặt kính khác nhau: đen, đỏ, tím, vàng, xanh. Người nhìn vào mặt kính màu nào thì thấy ngọn đèn màu đó… Các tôn giáo cũng vậy, mỗi tôn giáo khác nhau nhưng chân lý như ngọn đèn ở giữa đều giống nhau, ở đâu cũng nhận được sự cứu rỗi.

          Tôi đem điều này cân nhắc và đi đến một kết luận: Theo lý luận này thì ở Cao Đài, nếu tu thân, tránh ác, theo lành thì ở Cơ Đốc giáo sống như vậy cũng được cứu… tôi suy nghĩ vợ tôi vì thương tôi đành rời cha mẹ để theo tôi, mà vẫn nhớ thương cha mẹ, tại sao tôi cố chấp không trở về để có cả sự cứu rỗi và vợ mình được hòa hợp với gia đình. Sáng ra tôi hỏi ý kiến ông anh tôi, ông ta bác bỏ… 


          Trong thư nhạc phụ tôi có hẹn nếu đồng ý thì cuối tháng về gặp nhau ở Đà nẵng. Lúc bấy giờ ông đang hầu việc Chúa ở Cam lộ Quảng trị. Tôi xuống thị xã đánh điện tín xin phép cho suy nghĩ 15 ngày sẽ có tin trả lời. Tôi tiếp tục vừa đi làm vừa suy nghĩ, chỉ một tuần thôi tôi thấy lý luận mình là đúng và quyết định về nhà, sau đó gởi điện tín báo sẽ về y hẹn.
          Khi chúng tôi về gặp lại gia đình, cả nhà ôm vợ tôi khóc lóc trong mừng rỡ, (1 năm cách trở) xem như chúng tôi là chàng con trai hoang đàng trong Kinh thánh.
          Tôi bắt đầu học cầu nguyện, học tín điều, học mục lục để biết giở Kinh thánh v.v… Tám tháng sau tôi được nhận vào trường Kinh thánh. Ban giám đốc trao cho mỗi người một tờ giấy và tự viết những ý tưởng vào đó. Tôi viết vào đó quan điểm của tôi mọi mặt, kể ra những tính xấu, cũng kể ra cả việc lấy vợ của mình v.v… Ông hiệu trưởng nói với nhạc phụ tôi: thằng rể của ông tái sinh rồi, ông già vợ mừng lắm kể lại tôi nghe. Trong lớp học là những thanh niên tuổi đạo nhiều năm, tôi mới 8 tháng, tôi phải nổ lực để học, tháng đầu rất lận đận, sau đó tôi bắt kịp họ…
          Học được bốn tháng, vào những ngày thứ bảy trường cho học viên nghỉ ngơi và dạo chơi, một thứ bảy nọ trong khi anh em đi hết tôi ở nhà một mình học bài… khi đọc đến lời cầu nguyện của Chúa Giê-su rất quen thuộc lúc bị đóng đinh: “Xin Cha tha tội cho họ vì họ làm điều mà mình không biết”, nhưng  khi đọc lần này tôi cảm thấy hai bên thái dương của mình tê tái, lòng thì xúc  động… vì bổng nhiên nhận ra chỉ có tình yêu vĩ đại mới có thể cầu nguyện cho kể đã giết mình ngay lúc sắp lìa đời.
          Xúc động, tôi quì gối xuống cầu nguyện tiếp nhận Chúa… Thế là từ trước đến lúc đó, kể cả sau khi chịu báp têm, tôi vẫn giữ quan niệm Chúa Giê-su là một giáo chủ  như Thích ca, Khổng tử v.v…và lúc bấy giờ tôi mới cảm nhận Chúa là Đấng Cứu Chuộc duy nhất.
          Tôi cảm nhận rằng Chúa đã sắp xếp chương trình của Ngài để cứu tôi từ khi tôi bắt đầu yêu vợ tôi. Thật ra đã có lần tôi quyết định bỏ cuộc và đã viết thư “đoạn tuyệt”, vì tôi biết rằng khi yêu nhà tôi thì sẽ bị chống đối và gặp vô vàn khó khăn, nhưng sau đó vì vợ tôi quá yêu tôi nên chúng tôi bỏ ý định chia tay.
          Tôi xin chia xẻ lời chứng này cho hết thảy con cái Chúa. Cầu xin Chúa cảm động hết thảy những ai khi đọc bài chứng này mà cảm nhận mình chưa tin Chúa thật sự.


Nguyễn Quốc Thái.

(Bài chứng sắp đến: Từ ngày thứ nhất đến ngày Sa-bát).




Read more…

12:33 AM |
Dịch vụ Điện Thoại

>> Gia nhập Solavei - Join Now

http://www.solavei.com/mobile-service/unlocked-phones

Dùng Lại Phone củ: Bring Your Own Phone

Already have a phone? No Problem. You can easily bring your unlocked GSM phone onto Solavei mobile service. Follow the steps below to verify that your phone will work on the Solavei network.
Verify your phone
  1. Go to your dialpad and type *#06#
  2. Your phone's IMEI number will appear
  3. Enter your phone's IMEI number below
Bring Phone Video
Bring Your Own Phone

Mua Phone Mới - Buy a New Phone

Solavei has partnered with GSM Nation to provide affordable options as well as the latest and greatest handsets at great prices!
These GSM devices will provide the best mobile service experience on the Solavei nationwide 4G network. Phones purchased from GSM Nation comes unlocked with a Solavei SIM Card and pre-configured with Solavei settings.
You will be redirected to GSM Nation by selecting the Browse Phones button. After completing your purchase, you will need to return to Solavei.com to complete your mobile service enrollment.
GSM Nation
The GSM Nation/Solavei mobile phone store is an online marketplace where you can purchase cell phones compatible with the Solavei network. Solavei is not a party to any transaction you may make with GSM Nation and is not responsible or liable for any products or services purchased through GSM Nation. Please direct any questions or claims to GSM Nation.




Solavei support #:  
I got in contact with one of their independent reps through their facebook page. He told me that although the company hasn't updated their log of IMEI #s to reflect the new Nexus 4 phones the nexus 4 will work on their tmobile network just like any other GSM phone, especially since the last generation nexus is compatible. The IMEI check on their website is only so that they can ship you the correct size sim card (It is a micro-sim in the case of the Nexus 4). Here are the steps I took:

1. To begin signup of your Nexus 4 use this link http://www.solavei.com/kimcuctang
2. Enter your zip to confirm coverage
3. [Important] Use the following IMEI # to get past the first step: 353022055115650 . This IMEI ensures you get the micro-sim card instead of a full-size sim.
4. Solavei asks if you want to port a phone # or have them choose a phone # for you.
5. Solavei asks for the usual personal information
6. Solavei mentions that it will be shipping you a "sim" but does not go into detail whether it is a micro-sim or not. Don't worry. The IMEI # you used earlier ensures it is a micro-sim.
7. Finish the process and a micro-sim card will be shipped out to you within 2 business days



Read more…