Xuân về nhớ một bài hát

12:34 AM |
Đỗ Xuân Tê

Trong công trình sáng tác đồ sộ hơn 50 năm của một nhạc sĩ hải ngoại, gồm trên 200 ca khúc, phải nói Nhật Ngân là người hay viết những bài ca về mùa xuân mà nội dung thế nào cũng nói đến cái Tết cổ truyền của dân tộc Việt, một tập tục gợi nhớ những ngày xuân khi đất trời giao hòa nhà nhà xum họp mừng vui cho cuộc sống bước vào năm mới.
Một trong những bài hát được quần chúng hâm mộ nhất là bài Xuân này con không về và thực sự bài này đã đi vào huyền thoại. Ca khúc một thời không chỉ được hát để thể hiện tâm tư của những anh lính xa nhà vì hoàn cảnh chiến tranh không thể về thăm mẹ thăm em vui xuân với bà con chòm xóm như những tháng năm thanh bình thuở trước, mà bài hát còn theo chân những người con tha hương sau chiến tranh dắt díu nhau ra hải ngoại để rồi mỗi khi tết đến xuân về lại nức nở sụt xùi  nhớ mẹ nhớ em trong  phút giao thừa khói hương lan tỏa.
Bài hát đã để lại dấu ấn khá đậm đà trong lòng những người xa xứ khi thế hệ thứ hai ở hải ngoại vẫn còn biết nghe hoặc biết hát trong các dịp họp mặt  mừng Xuân tìm về tình tự dân tộc của những người con mang dòng máu Việt. Chẳng thế mà nơi vùng tôi ở, một hội thánh CĐPL  tuy nhỏ nhưng mỗi năm khi tổ chức văn nghệ Tết cho tín hữu và bà con cộng đồng người Việt tại đia phương, thiếu gì thì thiếu nhưng không thể thiếu bài ca huyền thoại này.
Lại càng vui khi tại quê nhà bài hát tuy không cho phép chính thức nhưng vẫn được quần chúng thính giả sau chiến tranh công khai xử dụng và cùng nhau chia sẻ mỗi khi đất trời vào xuân. Nói cho ngay, bài hát mang sắc thái phi chính trị như nói hộ nhiều điều thể hiện niềm thương nỗi nhớ cho bất cứ thân phận nào do hoàn cảnh vì cuộc sống vì sinh kế phải xa quê xa gia đình, cuối năm không thể về thăm cha thăm mẹ để sưởi ấm lại tình thương, để cùng nhau nhâm nhi chút mứt gừng, ăn chút bánh tét bánh chưng trong ba ngày tết, có gần thì cũng kẻ trong nam người ngoài bắc, người thành thị kẻ dưới quê, còn xa thì tận mãi đông Âu, xứ Nga, xứ Hàn, Đài loan, Campuchia, Lào, Thái…, chưa kể dòng người gốc Việt xuất dương di tản sau chiến tranh đang sinh sống khắp năm châu bốn bể.
Là người làm công tác văn nghệ  cùng ngành với Nhật Ngân khi anh bị động viên vào quân ngũ, tôi chưa thấy bài hát nào được thính giả yêu cầu hát nhiều lần trong mỗi dịp xuân về trên làn sóng phát thanh truyền hình miền nam,  trên các sân khấu ca nhạc lớn nhỏ, trong các chuyến lưu diễn nơi tiền đồn, xã ấp, rồi các đơn vị đóng quân nơi rừng sâu núi thẳm, hải đảo xa xôi, các tụ điểm bến xe bến phà nhà ga sân bay bến cảng, nói chung từ tiền tuyến đến hậu phương, từ làng quê lên phố thị đâu đâu cũng nghe văng vẳng tiếng hát của các nghệ sĩ nổi tiếng một thời trong đó phải kể ca sĩ Duy Khánh, người thể hiện thành công nhất bài hát này, đặc biệt vào những chiều cuối năm lan tỏa sang những ngày đầu xuân. Có điều trớ trêu là xuân về thì chỉ mong xum vầy đoàn tụ, vợ trẻ mong chồng, mẹ già mong con, con thơ ngóng bố, em gái hậu phương trông anh trai tiền tuyến, người yêu quê nhà chờ bạn tình xa…ai lại đi hát đi nghe những ca khúc nội dung chia phôi lỗi hẹn vào những giây phút đã không vui mà nuớc mắt lại trào?
Nhưng rồi ra ai cũng hiểu khi đất nuớc còn chiến tranh quê hương còn khói lửa thì mấy ai, mấy gia đình hưởng trọn được niềm vui?  Cho nên Nhật Ngân như hiểu được tâm trạng này nên anh đã viết lên ca khúc mà âm điệu thì lắng sâu ray rứt, ca từ thì mộc mạc chân quê, ai hát cũng được ai nghe cũng mủi lòng. Tôi nhớ một lần đi lưu diễn bên Lào và Thái lan đầu thập niên ’70,  hồi ấy chưa có chuyện di tản vượt biên hay lao động xuất khẩu, mà khán giả chỉ là những bà con mình tha phương cầu thực trên đất khách, nhiều người đã khóc khi nghe hai bài hát Đêm Đông và Xuân này con không về. Cho đến nay dù bốn mươi năm đã qua, nhưng bài hát vẫn được hát và cảm xúc thì chẳng bao giờ vơi đối với những thân phận xa quê mỗi dịp xuân về.
Nhớ lại bài hát của Nhật Ngân, ta cũng lại đồng cảm với tâm trạng của người nhạc sĩ tài hơa  không chỉ viết về mùa xuân này, một mùa xuân dành cho những nhân thân nơi cõi tạm quê nhờ, mà thực sự anh luôn mơ tới một  mùa xuân vĩnh cửu, nơi không còn ghen ghét hận thù, nơi chẳng còn sinh ly tử biệt, một  chốn bình yên một ‘thiên đường này anh mơ ước bao lâu’ như chính anh đã viết trong bài Một mai giã từ vũ khí, ngẫu nhiên trùng hợp với  ước vọng của những người có đức tin khi mơ về nơi trời mới đất mới, nơi Đức Chúa Trời sẽ ở giữa loài người, Ngài sẽ lau ráo hết  nước mắt cho chúng sinh, sẽ không có sự chết, cũng chẳng còn than khóc, đau đớn nữa (Khải Huyền 21: 4).
Qua  sự nghiệp sáng tác, nhiều người tưởng Nhật Ngân là chàng trai xứ Huế, nhưng biết anh, tôi xin được bổ sung thêm về quê quán của anh, mà cũng là tác giả bài Tôi đưa em sang sông,  anh gốc người Thanh hoá, có sống ở Huế một thời gian không lâu, nhưng gắn bó nhất với thời trai trẻ vẫn là quê hương Quảng nam-Đà nẵng, một vùng đất anh luôn ôm ấp như chính những người con xứ Quảng cũng nhiệt tình đón nhận thương mến anh, và nếu nghe lại bài ca, ‘Quảng nam quê ta ơi’ anh sáng tác riêng cho vùng đất địa linh nhân kiệt này thì mới hiểu hết tình quê xứ Quảng nơi anh.

Đỗ Xuân Tê



Read more…

Đầu năm nói chuyện Yêu thương

3:41 PM |


Năm cũ đã qua, năm mới lại đến. Chu kỳ thời gian vận hành của trời đất vẫn quay đều chừng nào trái đất chưa đến hồi tận thế. Nói theo nghĩa thuộc linh chừng nào Chúa chưa trở lại và mọi  sự trên đất chưa kết thúc theo ý của Thiên Chúa.

Mấy năm trở lại đây, đăc biệt năm vừa qua, thiên hạ nhắc nhiều, suy diễn nhiều về ngày tận thế. Có người tin có kẻ ngờ, nhiều người tỏ ra thờ ơ, nhưng cũng có kẻ bán nhà bán cửa, bỏ công thôi việc, thậm chí bán cả nhà thờ như một ông mục sư Tin lành ở mạn bắc Cali khi ông tin chắc là ngày tận thế sắp đến (với ngày tháng cụ thể) rồi bỏ tiền cùng quyên góp cho một chiến dịch cảnh báo sự kiện này trên toàn nước Mỹ. Theo sở thuế của Mỹ chứng thực có năm ông quyên được cả 20 triệu USD. rồi Chúa vẫn chưa đến, ông sinh bệnh, mất tiền, mất nhà thờ, tín đồ mất chỗ nhóm, báo hại cho nhiều người làm theo ông cả tin vào lời tiên tri hão.

Ấy vậy mà những năm kế tiếp, người ta vẫn còn bày chuyện một ngày ngắn hạn nào đó sẽ có tận thế, một ngày mà trái đất sẽ tiêu tan trần gian xóa sổ. Thật sự chẳng cần suy đoán, ‘ngày đó’ sẽ đến, đến bất thình lình, bất cứ lúc nào, nhưng may thay Kinh thánh đã chỉ rõ chỉ có Đấng Tạo Hóa, Đấng làm ra muôn vật mới biết rõ điều này. Chính Chúa Giê-su Đấng thông hiểu mọi sự cũng còn cảnh báo chỉ có Cha ta ở trên trời mới nắm ngày giờ cụ thể.

Cho nên, là những người có đức tin, chúng ta không tin vào những lời đồn đóan của con người mà chỉ vững tin là Chúa sẽ trở lại và trở lại một ngày không xa dựa theo những dấu hiệu của thời kỳ cuối cùng như các tôi tớ của Chúa thường giảng dạy.

Điều quan trọng là ngày nào còn sống trên thế gian, thì mối quan hệ giữa người với người vẫn là nhân tố thiết yếu và tố chất yêu thương lại càng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày chưa kể giữa những người đồng đạo với nhau. Chính Chúa cũng thường nhắn nhủ con cái của Ngài nên tỏ tình yêu thương lẫn nhau như ‘ta yêu thương các ngươi’.  

Năm nay theo niên lịch là 2013, con số 13 làm tôi liên tưởng đến Chương 13 trong sách 1 Cô-rinh-tô mà tác giả là sứ đồ Phao-lô khi ông viết về ý nghĩa của Tình Yêu Thương, một chương mà sau này các học giả nghiên cứu về Tân ước cho đây là một trong những chưong tuyệt vời nhất củaThánh  kinh.  

Tôi chú ý đến một câu mà sứ đồ đã ví von khi ông lấy ‘đức tin’, một tập quán mang niềm tự hào của người Cơ-đốc để đánh giá thái độ của người tin Chúa , ‘dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương thì tôi chẳng ra gì’’ (câu 2)

Biểu lộ về tình yêu thương không hẳn chỉ bằng môi bằng lưỡi, bằng những cái hôn cái hug theo thói quen thường thấy, mà Phao-lô chỉ thẳng ra bằng một số hình thức cụ thể, trong đó theo tôi mang  tính nhân bản nhất vẫn là ‘có tình yêu thương thì hay làm điều nhân từ và chẳng hề ghen tị’. Nói theo nghĩa thường thì nhân từ là biết thương người và làm điều tử tế, một khi đối xử tử tế thì chẳng còn ghen ghét tị hiềm, một thói xấu mà con người thường vấp phạm từ buổi sáng thế.

Quả thật ghen tị là một thói xấu, phản lại tình yêu thương và tác hại nặng nề đến mối quan hệ giữa người với người, nó tồn tại nhãn tiền ngay trong gia đình cha mẹ con cái, trong họ tộc chú bác cô dì, trong anh em đồng tông đồng sở, trong  bạn bè lối xóm xa gần, trong cộng đồng mỗi  người đang sống, mà  còn đi xa hơn len lỏi vào cả các con cái Chúa trong các hội thánh, mà nếu không ngại  ‘vạch áo cho người xem lưng’, ai cũng có thể chỉ ra các trường hợp cụ thể ở những nơi những chốn một thời họ từng sinh hoạt, bất kể Mỹ hay Việt, trong nước hay hải ngoại, giống dân này hay sắc tộc kia.

Nói cho  ngay, ghen tị là căn bệnh xã hội có di căn từ khi xác lập cộng đồng loài người, biểu thị ngay từ những ngàycó Ê-va và A-đam trên đất. Các gương xấu vì ghen tị đã được thuật lại trong anh em nhà Ca-in, trong đám anh trai nhà Giô-sép mà hậu quả khôn lường mang đến các bi kịch gây thương vong và điêu đứng cho các nạn nhân bị anh em hay người đời ghen ghét.  

Ngày nay, chẳng nói đâu xa ngay trong các hội thánh của mình vấn nạn thiếu tình yêu thưong vẫn còn tồn tại, đa phần do tính ghen ghét tị hiềm từ những điều nhỏ nhặt trong sinh hoạt, chuyện ăn  chuyện uống, quan hệ cá nhân  đến những sự việc nghiêm trọng hơn khi chia rẽ bè nhóm, ngay cả trong công việc tông đồ phục vụ tha nhân, khi sự yếu đuối của con người vốn chỉ muốn cho mình là nhất và quên đi vinh hiển chỉ dành cho Chúa qua những công việc công đức mình làm. Chính thói ghen tị làm mất tình đoàn kết, hiệp một trong con cái Chúa, gây khó xử cho việc điều hành lãnh đạo hộị thánh,mà đôi khi có cả chức viên trong ban trị sự. Có ngưòi đã bỏ hội thánh, thậm chí chính tôi đã được nghe lời than thở của một nữ tín đồ vùng tôi ở khi cô phàn nàn mối quan hệ soi mói của những người chị em của mình mà phải thốt ra, ‘họ ác lắm bác ơi!’.

Đầu năm tản mạn chuyện yêu thương mà người viết cứ như muốn phơi bày mấy cái tiêu cực trong sinh hoạt hội thánh, trong quan hệ cộng đồng. Quả thật chẳng ai muốn làm như vậy, nếu có viết ra thì cũng chỉ là nói hộ cho nhiều người và cũng là dịp để chính tôi, một kẻ bất toàn nghiệm lại bản thân mình có vấp phạm đâu đó trong cuộc đời tin kính dù một lần hay nhiều lần, vô tình hay hữu ý.

Đạo của Chúa cốt lõi vẫn là ơn cứu rỗi, ai đã tin và theo Chúa đều hiểu điều này. Đức tin là quan trọng, sự trông cậy là thiết yếu, ấy vậy mà Phao-lô khi so sánh với tình yêu thương, ông vẫn cho là ‘trong ba điều ấy tình yêu thương vẫn là trội (trọng) hơn cả’.

Nhớ lại khi đi tù cải tạo, tôi ở chung với một vị sư già. Thầy là giám đốc tuyên  úy Phật giáo trong quân đội miền Nam và có quan hê quen biết với gia đình tôi. Có lần thầy hỏi tôi, bà cụ anh còn đi chùa không, tôi trả lời bà cụ con đã mất, rồi tiện dịp tôi thưa với thầy gia đình ở nhà vơ và các con đã tin Chúa. Lý do làm sao tôi cũng kể sơ qua. Nghe xong, thầy chỉ nói, “Thế cũng được, giáo lý của Chúa Giê-su về nhân từ bác ái cũng sâu lắm.” Rồi như để tôi đỡ bối rối, thầy quay sang chuyện khác. Tôi cứ nhớ lời thầy và  coi như lời chứng, rồi tìm hiểu về Kinh Thánh, khi ra trại theo gương vợ con, từng bước tôi trở thành tín đồ Cơ-đốc.


Cali, ngày đầu năm

Đỗ xuân Thảo



Read more…